Mình xin được tạm dịch : “Với nỗi buồn,tôi xác nhận với bạn rằng Đức Giáo Hoàng Emeritus, Benedict XVI, đã qua đời vào lúc 9:34 ngày hôm nay tại tu viện Mater Ecclesiae ở đất nước Vatican. Các thông tin kế tiếp sẽ được thông tin sớm” Ghi chú: theo giờ địa phương – giờ Vatican
“With sorrow I inform you that the Pope Emeritus, Benedict XVI, passed away today at 9:34 in the Mater Ecclesiae Monastery in the Vatican. Further information will be provided as soon as possible.”
Nguồn gốc :
-https://www.vaticannews.va/en/vatican-city/news/2022-12/pope-emeritus-benedict-xvi-dies-aged-95.html?fbclid=IwAR2_5MKiEqLgNALtW2fI1ajuybeETzkKn9unIoqALC7aJvu6IUnuP4tNJQE
-https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=6165392330138986&id=496909843653958&mibextid=qC1gEa
Theo Vatican News : Đức Biển Đức XVI, người thợ khiêm nhường trong vườn nho của Chúa, đã về nhà Cha
Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức, 95 tuổi, đã từ trần vào lúc 9:34 giờ Roma tại nơi cư trú của ngài ở Vatican. Di hài của ngài sẽ được đặt tại Đền thờ thánh Phêrô từ sáng thứ Hai 2/1/2023 để các tín hữu kính viếng.
Đức Biển Đức XVI đã trở về Nhà Cha. Cách đây ít phút, Phòng Báo chí Toà Thánh đã thông báo rằng ngài đã qua đời vào lúc 9:34 giờ Roma tại đan viện Mater Ecclesiae, nơi Đức nguyên Giáo hoàng, 95 tuổi, đã chọn làm nơi cư trú sau khi từ nhiệm vào năm 2013.
Tin tức về sức khoẻ suy giảm
Từ một số ngày qua, tình trạng sức khỏe của Đức nguyên Giáo hoàng đã trở nên xấu đi rất nhiều do tuổi cao sức yếu, như Phòng Báo chí đã đưa tin khi cập nhật về diễn biến tình trạng sức khoẻ của ngài.
Chính Đức Thánh Cha Phanxicô đã muốn chia sẻ công khai tin tức về tình trạng sức khoẻ xấu đi của vị tiền nhiệm vào cuối buổi tiếp kiến chung cuối cùng của năm, hôm 28 tháng 12 vừa qua, khi mời gọi cầu nguyện cho Đức nguyên Giáo hoàng, “rất yếu”, để xin Chúa an ủi ngài và nâng đỡ ngài “trong chứng tá tình yêu dành cho Giáo hội cho đến cùng.” Và ngay lập tức, tại tất cả các châu lục, nhiều chương trình cầu nguyện đã được nhân rộng với các sứ điệp liên đới và gần gũi ngay cả từ những người ngoài Giáo hội.
Trong vài giờ tới, tin tức về nghi thức tang lễ sẽ được Văn phòng Báo chí Vatican thông báo.
……………………………
Theo Vatican News : Tiểu sử chính thức của Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI
Sau thông báo về sự ra đi của Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI vào thứ Bảy ngày 31 tháng 12 năm 2022, ở tuổi 95, chúng ta cùng nhìn lại cuộc đời của ngài và những điểm nổi bật chính trong tiểu sử chính thức sau đây.
Đức Hồng y Joseph Ratzinger, Giáo hoàng Biển Đức XVI, sinh tại Marktl am Inn, Giáo phận Passau (Đức) vào ngày 16 tháng 4 năm 1927 (Thứ Bảy Tuần Thánh) và được rửa tội cùng ngày.
Cha của ngài, một Ủy viên Cảnh sát, thuộc một gia đình nông dân lâu đời ở vùng Hạ Bavaria với nguồn kinh tế khiêm tốn. Mẹ ngài là con gái của một nghệ nhân xứ Rimsting, bên bờ Hồ Chiem. Trước khi kết hôn, cô làm đầu bếp ở một số khách sạn.
Joseph Ratzinger trải qua thời thơ ấu và thời niên thiếu ở Traunstein, một ngôi làng nhỏ gần biên giới nước Áo, cách Salzburg ba mươi cây số. Trong môi trường này, nơi chính ngài đã định nghĩa là “Mozartian”, ngài đã nhận được sự đào tạo Kitô giáo, văn hóa và nhân bản.
Những năm tháng tuổi trẻ của ngài không hề dễ dàng. Đức tin của ngài và nền giáo dục nhận được ở gia đình đã chuẩn bị cho ngài cuộc sống khắc nghiệt trong những năm mà chế độ Quốc xã có thái độ thù địch đối với Giáo hội Công giáo. Cậu bé Joseph đã chứng kiến cảnh một số tên Quốc xã đánh đập Cha xứ trước Thánh lễ.
Chính trong hoàn cảnh phức tạp đó, ngài đã khám phá ra vẻ đẹp và chân lý của niềm tin vào Chúa Kitô; nền tảng cho điều này là thái độ của gia đình ngài, những người luôn làm chứng rõ ràng về lòng tốt và hy vọng, bắt nguồn từ sự gắn bó xác tín với Giáo hội.
Ngài được ghi danh vào một quân đoàn dự bị phòng không cho đến tháng 9 năm 1944.
Linh mục
Từ năm 1946 đến năm 1951, ngài học triết học và thần học tại Trường Cao học Triết học và Thần học Freising và tại Đại học Munich.
Ngài được thụ phong linh mục ngày 29 tháng 6 năm 1951. Một năm sau, ngài bắt đầu giảng dạy tại Trường Trung học Freising.
Năm 1953, ngài đậu bằng tiến sĩ thần học với luận án mang tên “Dân và Nhà Thiên Chúa trong Học thuyết của Thánh Augustinô về Giáo hội”.
Bốn năm sau, dưới sự hướng dẫn của giáo sư nổi tiếng về thần học cơ bản Gottlieb Söhngen, ngài bảo vệ luận án về: “Thần học lịch sử ở St Bonaventura”, qua đó đủ điều kiện giảng dạy tại Đại học.
Sau khi dạy thần học tín lý và cơ bản tại Trường Cao học Triết học và Thần học ở Freising, ngài tiếp tục dạy ở Bonn, từ năm 1959 đến năm 1963; tại Münster từ 1963 đến 1966; và tại Tübingen từ năm 1966 đến năm 1969. Trong năm cuối cùng này, ngài giữ chức giáo sư tín lý và lịch sử tín lý tại Đại học Regensburg, nơi ngài cũng là Viện phó
Từ năm 1962 đến năm 1965, ngài đã có những đóng góp nổi bật cho Công đồng Vatican II với tư cách là một “chuyên gia”, có mặt tại Công đồng với tư cách là cố vấn thần học của Đức Hồng y Joseph Frings, Tổng Giám mục Köln.
Hoạt động khoa học cần mẫn của ngài đã đưa ngài đến những vị trí quan trọng trong việc phục vụ Hội đồng Giám mục Đức và Ủy ban Thần học Quốc tế.
Năm 1972, cùng với Hans Urs von Balthasar, Henri de Lubac và các nhà thần học quan trọng khác, ngài đã khởi xướng tạp chí thần học Communio.
Giám mục và Hồng y
Vào ngày 25 tháng 3 năm 1977, Đức Giáo hoàng Phaolô VI bổ nhiệm ngài làm Tổng Giám mục Munich và Freising. Ngày 28 tháng 5 cùng năm, ngài được thụ phong giám mục. Ngài là linh mục giáo phận đầu tiên sau 80 năm đảm nhận việc cai quản mục vụ của Tổng giáo phận Bavarian to lớn.
Ngài đã chọn phương châm giám mục của mình: “Những người cộng tác với chân lý”. Chính ngài đã giải thích lý do:
Một mặt, tôi coi đó là mối quan hệ giữa nhiệm vụ trước đây của tôi với tư cách là giáo sư và nhiệm vụ mới của tôi. Bất chấp những cách tiếp cận khác nhau, điều liên quan và vẫn tiếp tục như vậy là đi theo sự thật và phục vụ sự thật. Mặt khác, tôi chọn phương châm đó bởi vì trong thế giới ngày nay, chủ đề về sự thật gần như bị bỏ qua hoàn toàn, như một điều gì đó quá vĩ đại đối với con người, nhưng mọi thứ sẽ sụp đổ nếu thiếu vắng sự thật.
Đức Phaolô VI đã phong ngài làm Hồng y với nhà thờ hiệu toà là “Santa Maria Consolatrice al Tiburtino”, trong Công nghị ngày 27 tháng 6 năm 1977.
Năm 1978, ngài tham gia Mật nghị ngày 25 và 26 tháng 8, bầu chọn Đức Gioan Phaolô I, người đã bổ nhiệm ngài làm Đặc phái viên tại Đại hội Thánh Mẫu học Quốc tế lần III, được tổ chức tại Guayaquil (Ecuador) từ ngày 16 đến 24 tháng 9. Vào tháng 10 cùng năm, ngài tham gia Mật nghị bầu chọn Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Ngài là Tường trình viên của Thượng hội đồng lần thứ V của Thượng Hội đồng Giám mục diễn ra vào năm 1980 với chủ đề: “Vai trò của Gia đình Kitô hữu trong Thế giới Hiện đại”, và là Chủ tịch Thừa uỷ của Đại hội đồng Thường kỳ lần thứ VI vào năm 1983 về “Hòa Giải và Sám Hối trong Sứ Mạng của Giáo Hội Ngày Nay”.
Tổng trưởng
Ngày 25 tháng 11 năm 1981, Đức Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin và Chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng về Kinh Thánh và Ủy ban Thần học Quốc tế. .
Đức Thánh Cha đã nâng ngài lên hàng Hồng y đẳng Giám mục và với nhà thờ hiệu toà ở Velletri-Segni vào ngày 5 tháng 4 năm 1993.
Ngài là Chủ tịch Ủy ban Chuẩn bị Giáo lý Giáo hội Công giáo, sau sáu năm làm việc (1986-1992), đã trình lên Đức Thánh Cha Sách Giáo lý mới.
Vào ngày 6 tháng 11 năm 1998, Đức Thánh Cha đã phê chuẩn việc bầu chọn Đức Hồng Y Ratzinger làm Phó Niên Trưởng Hồng Y Đoàn, do các Hồng Y đẳng Giám Mục đệ trình. Vào ngày 30 tháng 11 năm 2002, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phê chuẩn việc bầu ngài làm Niên Trưởng Hồng y đoàn.
Năm 1999, ngài là Đặc phái viên của Đức Giáo hoàng cho Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập Giáo phận Paderborn, Đức, diễn ra vào ngày 3 tháng 1.
Trong Giáo triều Rôma, ngài là thành viên của: Hội đồng Quốc vụ khanh về Quan hệ với các Quốc gia; các Bộ Giáo hội Đông phương, Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Bộ Giám mục, Bộ Truyền giáo cho các Dân tộc, Bộ Giáo dục Công giáo, Bộ Giáo sĩ và Bộ Phong thánh; các Hội đồng Giáo hoàng Cổ võ Hiệp nhất Kitô hữu và Văn hoá; Tòa án Tối cao của Tòa án Tông toà, và của Ủy ban Giáo hoàng về Châu Mỹ Latinh, “Ecclesia Dei”, Giải thích Xác thực Bộ Giáo luật và Sửa đổi Bộ Giáo luật của các Giáo hội Đông phương.
Kể từ ngày 13 tháng 11 năm 2000, ngài là Viện sĩ Danh dự của Học viện Giáo hoàng về Khoa học.
Học thuật
Trong số nhiều ấn phẩm của ngài, cần đặc biệt đề cập đến cuốn Nhập môn Kitô giáo, một tuyển tập các bài giảng ở Đại học về Kinh Tin Kính, xuất bản năm 1968; và Tín lý và Giảng dạy (1973), một tuyển tập các bài tiểu luận, bài giảng và suy tư về các thảo luận mục vụ.
Bài phát biểu của ngài trước Học viện Công giáo Bavaria về “Tại sao tôi vẫn ở trong Giáo hội” đã gây được tiếng vang lớn; trong đó, ngài tuyên bố rõ ràng như thường lệ: “người ta chỉ có thể là Kitô hữu trong Giáo hội, không thể ở bên cạnh Giáo hội”.
Nhiều ấn phẩm của ngài đã được phổ biến trong nhiều năm và tạo thành một điểm tham chiếu cho nhiều người, đặc biệt là đối với những người quan tâm đến việc nghiên cứu sâu hơn về thần học. Năm 1985, ngài xuất bản cuốn sách phỏng vấn về tình hình đức tin (Báo cáo của Ratzinger) và vào năm 1996, Muối của Đất. Nhân dịp sinh nhật lần thứ 70 của ngài, tập sách Tại Trường Chân lý đã được xuất bản, bao gồm các bài viết của một số tác giả về các khía cạnh khác nhau trong tính cách và tác phẩm của ngài.
Ngài đã nhận được nhiều bằng tiến sĩ danh dự: năm 1984 từ Đại học Thánh Tôma ở St. Paul, (Minnesota, Hoa Kỳ); năm 1986 từ Đại học Công giáo Lima (Peru); năm 1987 từ Đại học Công giáo Eichstätt (Đức); năm 1988 từ Đại học Công giáo Lublin (Ba Lan); năm 1998 từ Đại học Navarre (Pamplona, Tây Ban Nha); năm 1999 từ LUMSA (Libera Università Maria Santissima Assunta) của Rôma và năm 2000 từ Khoa Thần học của Đại học Wrocław ở Ba Lan.
Giáo hoàng
Đức Hồng y Joseph Ratzinger được bầu vào ngày 19 tháng 4 năm 2005, là Giáo hoàng thứ 265.
Ngài là người lớn tuổi nhất được bầu làm Giáo hoàng kể từ năm 1730, và là Hồng y trong một thời gian dài hơn bất kỳ Giáo hoàng nào kể từ năm 1724.
Vào ngày 11 tháng 2 năm 2013, trong Công nghị Công khai thường lệ để bỏ phiếu về một số Án Phong Thánh, Đức Biển Đức đã thông báo quyết định từ nhiệm với những lời sau:
“Sau nhiều lần xét mình trước mặt Thiên Chúa, tôi đã đi đến chỗ chắc chắn rằng sức lực của tôi, do tuổi cao, không còn phù hợp để thi hành thừa tác vụ của thánh Phêrô nữa. Tôi ý thức rõ rằng thừa tác vụ này, do bản chất thiêng liêng thiết yếu của nó, phải được thực hiện không chỉ bằng lời nói và việc làm, mà còn bằng lời cầu nguyện và đau khổ. Tuy nhiên, trong thế giới hôm nay, trước biết bao thay đổi nhanh chóng và bị lung lay bởi những vấn đề liên quan sâu xa đến đời sống đức tin, để cai quản con thuyền của Thánh Phêrô và loan báo Tin Mừng, thì sức mạnh tinh thần và thể xác đều cần thiết, sức mạnh mà trong vài tháng qua, đã sa sút trong tôi đến mức tôi phải nhận ra mình không có khả năng chu toàn thánh chức được giao phó một cách thích đáng. Vì lý do này, và ý thức rõ ràng về mức độ nghiêm trọng của hành động này, tôi hoàn toàn tự do tuyên bố rằng tôi từ nhiệm chức vụ Giám mục Rôma, Người kế vị Thánh Phêrô.”
Triều đại giáo hoàng của ngài kết thúc vào ngày 28 tháng 2 năm 2013.
Sau khi đơn từ chức của ngài có hiệu lực, Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI đã sống ở Vatican trong Tu viện Mater Ecclesiae cho đến khi qua đời.
…………………………………
Theo Federico Lombardi : Đức Biển Đức XVI, một cuộc đời dấn thân để gặp gỡ khuôn mặt của Chúa Giêsu
Cựu phát ngôn viên của Đức Biển Đức XVI đã phác thảo tiểu sử của Đức Joseph Ratzinger và sứ mạng đặc biệt của ngài, được tập trung vào niềm tin vào Chúa Kitô. Một đức tin luôn đối thoại với lý trí, và do đó, với thế giới, để tìm kiếm thứ chân lý không phải là một tập hợp các khái niệm nhưng là Tình yêu nhập thể.
“Sẽ không lâu nữa tôi sẽ đứng trước vị thẩm phán cuối cùng của đời mình. Mặc dù khi nhìn lại cuộc đời dài đằng đẵng của mình, tôi có thể có quá nhiều lý do để sợ hãi và lo sợ, nhưng lòng tôi vẫn vui mừng bởi vì tôi tin tưởng chắc chắn rằng Chúa không chỉ là vị thẩm phán công bằng, mà còn là người bạn và người anh của tôi; chính Người đã đau khổ vì những thiếu sót của tôi và do đó, ngài là vị thẩm phán và đồng thời cũng là trạng sư của tôi. Trước giờ phán xét, ân sủng được làm Kitô hữu trở nên rất rõ ràng đối với tôi. Là Kitô hữu mang lại cho tôi sự hiểu biết, hơn nữa, tình bạn với vị thẩm phán của cuộc đời tôi và cho phép tôi tự tin bước qua cánh cửa tăm tối của cái chết. Về phương diện này, điều thánh Gioan thuật ở đầu Sách Khải Huyền luôn hiện lên trong tâm trí tôi: ngài nhìn thấy Con Người trong tất cả sự cao cả của Người và ngã xuống như thể đã chết. Nhưng Người đặt tay hữu trên ngài và nói: ‘Đừng sợ! Ta là …’ (x. Kh 1,12-17)”. Đức Biển Đức XVI đã viết như vậy trong bức thư cuối cùng của ngài, đề ngày 6 tháng 2 năm nay, vào cuối những ngày đau khổ “kiểm thảo lương tâm và suy tư” về những lời chỉ trích nhằm vào ngài về vấn đề lạm dụng khi ngài còn là Tổng Giám mục Munich hơn 40 năm trước.
Cuối cùng giờ phút gặp gỡ Chúa đã đến. Chắc chắn chúng ta không thể nói rằng đó là điều bất ngờ và cụ già đáng kính của chúng ta đã không chuẩn bị cho điều này. Nếu vị tiền nhiệm của ngài đã cho chúng ta một chứng tá quý giá và khó quên về cách sống trong đức tin một căn bệnh tiến triển đau đớn cho đến chết, thì Đức Biển Đức XVI đã cho chúng ta một chứng tá tuyệt vời về cách sống trong đức tin sự mong manh ngày càng tăng của tuổi già trong nhiều năm cho đến cùng. Việc ngài từ nhiệm vào đúng thời điểm đã cho phép ngài – và cho phép chúng ta cùng với ngài – đi trên con đường này một cách vô cùng thanh thản.
Ngài được ơn hoàn thành cuộc hành trình của mình với tâm trí minh mẫn, đến gần, cách hoàn toàn ý thức ,với những “thực tại cuối cùng” mà ngài có can đảm để suy nghĩ và nói, như một số ít người, nhờ vào đức tin đã nhận được và đã sống. Vừa là nhà thần học vừa là Giáo hoàng, ngài đã nói với chúng ta về điều này một cách sâu sắc, đáng tin cậy và thuyết phục. Những trang sách và những lời của ngài về cánh chung học, thông điệp của ngài về niềm hy vọng vẫn là một món quà cho Giáo hội mà lời cầu nguyện thầm lặng của ngài đã đóng ấn trong những năm dài ẩn dật “trên núi.”
Trong số rất nhiều điều có thể nhớ về triều đại Giáo hoàng của ngài, điều thực sự là điều phi thường nhất đối với tôi, và tiếp tục đối với tôi, chính là trong những năm đó, ngài đã viết và hoàn thành bộ ba tác phẩm về Chúa Giêsu. Làm thế nào một vị Giáo hoàng, với những trách nhiệm và những mối bận tâm về Giáo hội hoàn vũ mà ngài đã thực sự gánh vác trên vai, có thể viết được một tác phẩm như thế? Chắc chắn, đó là kết quả của cả cuộc đời suy tư và nghiên cứu. Nhưng chắc chắn là niềm đam mê nội tâm, động lực phải vô cùng mạnh mẽ. Các trang của tác phẩm đến từ ngòi bút của một học giả, nhưng đồng thời cũng là của một tín hữu đã dành cuộc đời mình để tìm kiếm một cuộc gặp gỡ với khuôn mặt của Chúa Giêsu và đồng thời nhìn thấy trong đó sự hoàn thành của ơn gọi và sự phục vụ tha nhân của mình.
Theo nghĩa này, mặc dù tôi hiểu rõ tại sao ngài nói rõ rằng tác phẩm đó không được coi là “huấn quyền giáo hoàng”, nhưng tôi vẫn tiếp tục nghĩ rằng đó là một phần thiết yếu trong chứng từ của ngài về sự phục vụ với tư cách là giáo hoàng, nghĩa là với tư cách là một tín hữu, người nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, và dựa vào đức tin của ngài chúng ta cũng có thể tiếp tục nâng đỡ đức tin của mình. Theo nghĩa này, tôi không thể xem là điều ngẫu nhiên thời điểm ngài đưa ra quyết định từ chức Giáo hoàng, tức là mùa hè năm 2012, trùng với thời điểm kết thúc bộ ba tác phẩm về Chúa Giêsu. Thời gian hoàn thành một sứ vụ tập trung trên niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô.
Không còn nghi ngờ gì nữa, triều đại giáo hoàng của Đức Biển Đức XVI được đặc trưng bởi giáo huấn của ngài hơn là bởi hoạt động lãnh đạo. “Tôi biết rõ rằng sức mạnh của tôi – nếu tôi có – là khả năng trình bày đức tin theo cách phù hợp với nền văn hóa của thời đại chúng ta” (…). Một đức tin luôn đối thoại với lý trí, một đức tin hợp lý; một lý trí mở ra với đức tin. Đức Giáo hoàng Ratzinger đã được kính trọng một cách đúng đắn bởi những người sống chú ý đến các chuyển động của tư tưởng và tinh thần và cố gắng đọc các sự kiện theo ý nghĩa sâu sắc và lâu dài nhất của chúng, mà không dừng lại ở bề nổi của các sự kiện và các thay đổi. Không phải vô cớ mà một số bài phát biểu tuyệt vời của ngài trước cử tọa không chỉ gồm những người thuộc Giáo hội, mà cả các đại diện của toàn xã hội, ở London, ở Berlin đã khắc sâu trong ký ức… Ngài không ngại đối đầu với những ý kiến và lập trường khác biệt, ngài nhìn với sự chân thành và tầm nhìn xa đối với những vấn đề lớn, đối với sự mờ mịt về sự hiện diện của Thiên Chúa ở chân trời của nhân loại đương đại, đối với những câu hỏi về tương lai của Giáo hội, đặc biệt là ở đất nước của ngài và ở Châu Âu. Và ngài đã cố gắng đối mặt với các vấn đề một cách trung thực, không trốn tránh chúng ngay cả khi chúng rất bi thương; nhưng đức tin và sự hiểu biết về đức tin đã giúp ngài luôn tìm thấy một viễn cảnh hy vọng.
Năng lực trí tuệ và văn hóa của Đức Joseph Ratzinger đã quá nổi tiếng nên không cần phải lặp lại những lời ca ngợi ngài. Đức Gioan Phaolô II là người có khả năng hiểu và đánh giá cao điều đó cho Giáo hội hoàn vũ. 24 năm trong 26 năm triều đại Giáo hoàng của vị tiền nhiệm, Đức Ratzinger là Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin. Hai tính cách khác nhau nhưng – cho phép tôi được nói điều đó – một “cặp đôi tuyệt vời.” Triều đại giáo hoàng kéo dài của Đức Giáo hoàng Wojtyla không thể được suy nghĩ đầy đủ, từ quan điểm tín lý, nếu không có sự hiện diện của Đức Hồng y Ratzinger và sự tin tưởng đặt nơi ngài, nơi nền thần học giáo hội của ngài, nơi sự rộng lớn và sự quân bình trong tư tưởng của ngài. Phục vụ sự hiệp nhất đức tin của Giáo hội trong những thập kỷ sau Công đồng Vatican II bằng cách đối mặt với những căng thẳng và thách thức mang tính thời đại trong cuộc đối thoại với Do Thái giáo, trong phong trào đại kết, trong cuộc đối thoại với các tôn giáo khác, trong cuộc đối đầu với chủ nghĩa Mác-xít, trong bối cảnh thế tục hóa và trong sự biến đổi của quan điểm về con người và về tính dục… có khả năng đề xuất một tổng hợp giáo lý rộng rãi và hài hòa như tổng hợp Giáo lý Giáo hội Công giáo, được đại đa số cộng đoàn Giáo hội hoan nghênh với sự đồng thuận không ngờ, cũng như dẫn dắt cộng đoàn này vượt qua ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ ba khi cảm nhận mình là người mang sứ điệp cứu rỗi cho nhân loại…
Trên thực tế, sự hợp tác rất lâu dài và đặc biệt đó là sự chuẩn bị cho triều đại giáo hoàng của Đức Biển Đức XVI, được các Hồng y coi là người tiếp tục và kế vị phù hợp nhất công việc của Đức Giáo hoàng Wojtyla. Một cái nhìn tổng thể về hành trình của Đức Joseph Ratzinger không làm mất – trái lại nó gây ấn tượng – tính liên tục của hướng đi chính của ngài và đồng thời là sự mở rộng dần dần chân trời phục vụ của ngài.
Ơn gọi của Joseph Ratzinger ngay từ đầu là ơn gọi linh mục, đồng thời là nghiên cứu thần học và hoạt động phụng vụ và mục vụ. Nó tiến triển trong các giai đoạn khác nhau, từ chủng viện đến những kinh nghiệm mục vụ đầu tiên và giảng dạy đại học; sau đó, chân trời lần đầu tiên được mở rộng ra với kinh nghiệm về Giáo hội phổ quát khi tham dự Công đồng và mối quan hệ với các nhà thần học vĩ đại của thời đại; sau đó, ngài quay trở lại hoạt động học thuật nghiên cứu thần học chuyên sâu, nhưng luôn ở trung tâm của cuộc tranh luận và kinh nghiệm Giáo hội; sau đó nó lại mở rộng trong hoạt động mục vụ của tổng giáo phận Munich rộng lớn; chuyển sang phục vụ Giáo hội hoàn vũ hoàn toàn với lời kêu gọi đến Rôma để lãnh đạo Bộ Giáo lý Đức tin; cuối cùng, một lời kêu gọi mới dẫn ngài đến việc cai quản toàn thể cộng đoàn Giáo hội. Chân trời đã trở nên hoàn chỉnh không chỉ về suy tư, mà còn cho cả thừa tác vụ linh mục và việc mục vụ. Phục vụ toàn thể cộng đồng Giáo hội, dẫn dắt Giáo hội cách thông minh trên những con đường của thời đại chúng ta, bảo vệ sự hiệp nhất và chân thật của đức tin. Khẩu hiệu được chọn nhân dịp tấn phong giám mục, “Những người cộng tác của chân lý” (3 Ga, 8), diễn tả rất rõ ràng toàn bộ sợi dây về cuộc đời và ơn gọi của Đức Joseph Ratzinger, nếu chúng ta hiểu rằng đối với ngài, chân lý không hề là một tập hợp các khái niệm trừu tượng, nhưng trong phân tích cuối cùng nó được thể hiện trong con người của Chúa Giêsu Kitô.
Triều đại Giáo hoàng của Đức Biển Đức XVI đang và sẽ được nhớ đến cách chung như một triều đại Giáo hoàng được đánh dấu bởi những thời kỳ khủng hoảng và khó khăn. Đó là sự thật và sẽ không công bằng nếu bỏ qua khía cạnh này. Nhưng phải nhìn nhận và không được đánh giá cách hời hợt. Đối với những lời chỉ trích và chống đối bên trong hoặc bên ngoài, chính ngài mỉm cười nhớ lại rằng một số Giáo hoàng khác đã phải đối mặt với những thời điểm và tình huống kịch tính hơn nhiều. Không cần phải quay trở lại những cuộc bách hại của những thế kỷ đầu tiên, chỉ cần nghĩ đến Đức Piô IX hoặc Đức Biển Đức XV, khi ngài lên án “cuộc tàn sát vô ích”, hoặc tình cảnh của các Giáo hoàng trong các cuộc chiến tranh thế giới. Vì vậy, ngài không coi mình là một người tử vì đạo. Không một Giáo hoàng nào có thể tưởng tưởng mình không gặp phải những chỉ trích, khó khăn và căng thẳng. Điều này không bỏ qua sự thật là, nếu cần thiết, ngài biết cách phản ứng lại những lời chỉ trích một cách sôi nổi và quyết đoán, như đã xảy ra với Bức thư không thể quên, được ngài viết cho các Giám mục vào năm 2009, sau vụ tha vạ tuyệt thông cho những người thuộc nhóm Lefèbvre và “vụ việc Williamson”; một bức thư đầy tâm huyết mà thư ký của ngài đã nhận xét với tôi rằng “Ratzinger viết với tâm hồn thuần khiết.”
Nhưng thập giá nặng nề nhất trong triều đại giáo hoàng của ngài, điều mà ngài đã bắt đầu nhận ra mức độ nghiêm trọng trong suốt thời gian ngài làm việc tại Bộ Giáo lý Đức tin và tiếp tục là một thử thách và thách đố có ý nghĩa lịch sử đối với Giáo hội, là vấn đề lạm dụng tính dục. Đây cũng là lý do dẫn đến những lời chỉ trích và công kích cá nhân đối với ngài cho đến những năm qua, do đó cũng là lý do khiến ngài đau khổ vô cùng. Chính tôi cũng đã tham gia rất nhiều vào các chủ đề này trong triều đại Giáo hoàng của ngài, tôi tin chắc rằng ngài đã nhìn thấy mức độ nghiêm trọng của các vấn đề một cách sáng suốt hơn bao giờ hết và có công lớn trong việc giải quyết chúng với tầm nhìn rộng và sâu sắc trong các chiều kích khác nhau: lắng nghe các nạn nhân, nghiêm khắc trong việc theo đuổi công lý khi đối mặt với tội ác, chữa lành vết thương, thiết lập các quy tắc và thủ tục phù hợp, đào tạo và ngăn ngừa điều xấu. Đó mới chỉ là khởi đầu của một hành trình dài, nhưng đúng hướng và với sự khiêm nhường lớn lao. Đức Biển Đức không bao giờ lo lắng về một “hình ảnh” của mình hoặc của Giáo hội không tương ứng với sự thật. Và ngay cả trong lĩnh vực này, ngài luôn hoạt động với quan điểm của một người có đức tin. Ngoài những biện pháp mục vụ hay pháp lý cần thiết để đối phó với sự dữ được thể hiện trong nhiều hình thức của nó, ngài đã cảm thấy sức mạnh bí ẩn và khủng khiếp của sự dữ và nhu cầu kêu cầu ân sủng để không bị đè bẹp trong tuyệt vọng và tìm ra con đường chữa lành, hoán cải, đền tội, thanh luyện, mà con người, Giáo hội và xã hội đang cần.
Khi tôi được yêu cầu kể lại ngắn gọn, với một sự kiện, câu chuyện về triều đại giáo hoàng của Đức Biển Đức XVI, tôi nhớ lại buổi canh thức cầu nguyện trong Ngày Giới trẻ Thế giới ở Madrid, năm 2011, trên khoảng sân rộng lớn của sân bay Cuatro vientos, với khoảng một triệu bạn trẻ tham dự Trời đã về chiều, bóng tối ngày càng dày đặc khi Đức Giáo hoàng bắt đầu bài phát biểu của mình. Tới một lúc, một cơn bão với mưa gió thực sự đổ xuống. Hệ thống ánh sáng và âm thanh bị ngưng hoạt động và nhiều lều ở gần phía ngoài bị sập. Tình hình thực sự gay cấn.Đức Giáo hoàng đã được các cộng tác viên của ngài mời di chuyển đi nơi khác và trú ẩn, nhưng ngài không muốn. Ngài vẫn kiên nhẫn và can đảm ngồi ở chỗ của mình trên sân khấu ngoài trời, được bảo vệ bởi một chiếc dù đơn giản đang bị gió thổi mạnh. Tất cả đám đông đều noi gương ngài, với lòng tin tưởng và kiên nhẫn. Sau một thời gian, cơn bão dịu đi, mưa tạnh và một sự an hoà tuyệt vời hoàn toàn bất ngờ đã đến. Các hệ thống điện bắt đầu hoạt động trở lại. Đức Thánh Cha kết thúc bài phát biểu của mình và mặt nhật tuyệt vời của nhà thờ chính tòa Toledo được đưa ra giữa sân khấu để Chầu Thánh Thể. Đức Thánh Cha quỳ gối thinh lặng trước Thánh Thể và sau lưng ngài, trong bóng tối, cộng đoàn đông đảo cùng nhau cầu nguyện hồi lâu trong sự tĩnh lặng tuyệt đối.
Theo một nghĩa nào đó, đây có thể vẫn là hình ảnh không chỉ của triều đại giáo hoàng, mà còn của cuộc đời của Đức Joseph Ratzinger và mục tiêu của cuộc hành trình của ngài. Trong khi giờ đây ngài bước vào sự thinh lặng mãi mãi trước mặt Chúa, thì chúng ta cũng tiếp tục cảm thấy mình ở phía sau ngài và với ngài.
- Cha Federico Lombardi là Chủ tịch Quỹ Joseph Ratzinge – Biển Đức XVI của Vatican